Theo bác sĩ Lê Thanh Phong, Trưởng khoa Phẫu thuật Mạch máu Bệnh viện Đại học TP.HCM, đột quỵ là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tai biến mạch máu não là do hẹp động mạch cảnh do xơ vữa động mạch.
Bác sĩ điều trị cho bệnh nhân bị hẹp động mạch cảnh. Hình: TT.
Về mặt cấu tạo, động mạch cảnh có một nhánh chịu trách nhiệm cung cấp máu cho não, gọi là động mạch cảnh trong. Thành của các động mạch bên trong bị dày lên bởi các mảng bám, gây hẹp động mạch cảnh. Động mạch cảnh đưa máu (mang oxy và chất dinh dưỡng) lên não, động mạch bị hẹp lại bị tắc, lúc này lượng máu lên não không đủ dẫn đến thiếu máu não.
Tai biến mạch máu Ébral là do một phần não bị thiếu oxy. Nguyên nhân là do cục máu đông hình thành tại chỗ dẫn đến tắc mạch não. Điều này có thể tồn tại trong thời gian ngắn và được gọi là “cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua”. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, bạn có thể bị liệt nửa người hoặc một phần cơ thể, chẳng hạn như tay hoặc chân.
Nguyên nhân gây hẹp động mạch cảnh
Hẹp động mạch cảnh thường xảy ra ở những bệnh nhân hút thuốc, uống rượu, tăng lipid máu, tăng huyết áp, đái tháo đường. Các yếu tố nguy cơ này làm tăng lắng đọng các mảng xơ vữa trong lòng mạch, đặc biệt là động mạch cảnh ở cổ.
Các triệu chứng của hẹp động mạch cảnh
Thông thường, hẹp động mạch cảnh không biểu hiện triệu chứng trong một thời gian dài, sau đó đột ngột gây ra đột quỵ. Bệnh này có thể được phát hiện tình cờ khi khám sức khỏe hoặc siêu âm.
Trong các trường hợp khác, hẹp động mạch cảnh có nhiều triệu chứng, bao gồm các cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua. Cho đến khi bị đánh. Cơn thiếu máu não thoáng qua có thể gây mù tạm thời một bên mắt hoặc tiếp xúc nhiều với ánh sáng, giảm thị lực, khó nói hoặc hạn chế ngôn ngữ, dị cảm thoáng qua nửa người hoặc nửa người, tê bì, tê nửa người. Ngoài ra, bệnh còn biểu hiện các triệu chứng không điển hình, như nhức đầu, chóng mặt, giảm trí nhớ, ngất xỉu …- nếu không được điều trị, hẹp động mạch cảnh có thể gây tắc động mạch. Động mạch cảnh. Ngoài ra, các mảng xơ vữa hoặc cục máu đông tụ lại trong lòng động mạch bị hẹp có thể giãn ra và chảy đến động mạch não, gây tắc mạch não và làm chết một phần não. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nhồi máu, điều này có thể dẫn đến tử vong, tàn tật một phần hoặc vĩnh viễn, được gọi là đột quỵ (hoặc nhồi máu não).
Công cụ chẩn đoán
Siêu âm Doppler là một phương tiện chẩn đoán đơn giản và không đau có thể đánh giá mức độ hẹp động mạch. Nếu tỷ lệ hẹp lớn hơn 60%, các phương pháp chẩn đoán khác (chẳng hạn như chụp động mạch cảnh (CT-Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI) hoặc chụp động mạch ức chế nền (DSA)) có thể cung cấp giá cả chính xác hơn. Do đó, nó cũng có thể kiểm tra tình trạng của các động mạch não và nhu mô não khác.
Phương pháp điều trị
Có hai phương pháp chính. Nếu hẹp động mạch cảnh nhẹ, dùng thuốc và theo dõi thường xuyên là đủ. Hẹp nặng cần phẫu thuật cắt bỏ mảng xơ vữa.
Ngoài ra, liệu pháp can thiệp nội mạch ít xâm lấn hơn (nong và đặt stent trong động mạch cảnh bị hẹp) và phù hợp với các bệnh lý. So với phẫu thuật, phương pháp này có tỷ lệ biến chứng thần kinh sau mổ cao hơn.
Trên thực tế, nhiều bệnh nhân đột quỵ bị tàn tật vĩnh viễn do hẹp động mạch cảnh. Nếu bị bắt sớm, điều này có thể tránh được. Vì vậy, khuyến cáo những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao như tuổi cao, hút thuốc lá, đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh mạch vành hoặc bệnh động mạch ngoại vi cần siêu âm Doppler. Để phát hiện các bất thường ở động mạch cảnh (nếu có).
Đối với những người bị cơn thoáng thiếu máu não hoặc đột quỵ, cần thường xuyên tham khảo ý kiến của các chuyên gia phẫu thuật thần kinh và siêu âm Doppler động mạch cảnh. Nếu kết quả siêu âm cho thấy mức độ hẹp động mạch cảnh lớn hơn 70% thì cần chuyển ngay bệnh nhân đến trung tâm phẫu thuật mạch máu để điều trị sớm. -Thi Tran
Leave a Reply