Theo Điều 11 của Đạo luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, hôn nhân phải được đăng ký và cử hành bởi cơ quan công quyền có thẩm quyền theo nghi lễ quy định tại Điều 14 của Đạo luật. Tất cả các nghi lễ kết hôn không được quy định tại Điều 14 của pháp luật là không hợp lệ trong pháp luật.
Hôn nhân không đăng ký, nhưng nam và nữ sống chung không được pháp luật công nhận. Là vợ / chồng.
Theo các quy tắc trên, mặc dù dì và chú của bạn đã kết hôn, họ có cùng thời gian với chồng và vợ và có một con trai. Tuy nhiên, mối quan hệ này không được coi là hợp pháp giữa mối quan hệ giữa vợ và chồng. Bởi vì đây không phải là mối quan hệ giữa vợ và chồng, mặt khác, tài sản mà chú bạn muốn chia sẻ được tạo ra bởi dì của bạn sau khi chồng và vợ sống với nhau, vì vậy chú của bạn yêu cầu chia cho dì của bạn hai vùng đất là không có căn cứ của.
Lời giải thích của chú bạn là: “Tôi vẫn là chồng của bạn, vì vậy tôi luôn có quyền sử dụng nó. Nếu bạn không tin, xin hãy lấy giấy khai sinh của con bạn, tôi là bố của nó” … Chỉ là luật pháp. Bởi vì khi một bên yêu cầu xác nhận rằng ai đó là cha hoặc con của mình, hoặc không phải cha hoặc con tôi, người được đặt tên trong giấy khai sinh của người Lôi chỉ là cơ sở để “xác nhận cha cho con”.
Một người cha hoặc người mẹ có giấy khai sinh khác với mối quan hệ hôn nhân xác định. Mối quan hệ giữa vợ và chồng chỉ có thể được thiết lập nếu hôn nhân được đăng ký hợp pháp.
Nếu chú của bạn cố tình tranh chấp tài sản với dì của bạn, bạn phải nộp tranh chấp lên tòa án để giải quyết. Tại thời điểm này, cha dượng phải chứng minh rằng mình đã góp phần tạo ra tài sản, ví dụ: có bằng chứng cho thấy bạn có thể gửi tiền để mua nhà …
Nếu dì của bạn sinh con, thông tin của bạn cho thấy dì của bạn đã để lại Phụ nữ và có một đứa con riêng, hàng hóa của dì bạn được sản xuất sau khi dì rời đi … vì vậy hãy chia sẻ hàng hóa của dì. Bạn giống như người chú mà bạn muốn là không có cơ sở và sẽ không được tòa án chấp nhận. Công ty luật Nong Thị Hồng Hà Công ty luật số 2 Hồng Hà, Hẻm Thị Sách, Phố Thị Sách, Hà Nội
Leave a Reply