Theo quy định tại Nghị định số 05/1999 / NĐ-CP ngày 03/02/1999 và Nghị định số 170/2007 / NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân. Mỗi công dân chỉ được cấp một CMND và có một số CMND riêng. – Thời hạn sử dụng của CMND là 15 năm kể từ ngày được cấp. Công dân phải làm thủ tục cấp lại CMND khi thay đổi nơi đăng ký thường trú ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Công dân có trách nhiệm nộp lại CMND cũ cho cơ quan Công an có thẩm quyền.
Nếu sau khi có CMND mới mà anh vẫn có ý định sử dụng CMND cũ trong các thủ tục dân sự, kinh tế, hành chính (như khai báo, cư trú, đăng ký kết hôn) … là vi phạm pháp luật. Tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo nghị định số 76/2006 ngày 2/8 / NĐ-CP Điều 13 điểm c của Chính phủ năm 2006 xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp và việc sử dụng CMND cũ để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Nó được coi là hành vi gian lận và sẽ bị xử phạt hành chính. Tùy theo tính chất, mức độ có thể bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.
Thời hạn xử phạt hành chính là một năm, kể từ ngày phạm tội. . Nếu vi phạm hành chính bị phát hiện sau thời hạn nêu trên thì không công bố xử phạt mà luôn có biện pháp khắc phục. – Căn cứ theo quy định tại Điều 13 khoản 4 của điều luật nêu trên, biện pháp khắc phục đối với hành vi gian dối khi sử dụng CMND để đăng ký kết hôn như sau: Tòa án nhân dân có quyền tuyên hủy Giấy chứng nhận kết hôn đã cấp. -Trong quá trình ra quyết định, nếu tòa án xét thấy việc đăng ký kết hôn trước đây chỉ là vi phạm về thủ tục (vi phạm về hình thức), không vi phạm “Điều 9 và Điều 10” pháp luật về đăng ký kết hôn theo Luật kết hôn năm 2000 “và Trong Luật Gia đình quy định như độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện … (vi phạm nội dung) thì tòa án chỉ hủy giấy đăng ký kết hôn chứ không tuyên bố bãi bỏ việc kết hôn. Đã vi phạm quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Về nguyên tắc, điều này có nghĩa là ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn mới được ghi theo thời gian cấp, nhưng khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vẫn không được công nhận.
Về ngày tháng năm sinh trên CMND (hoặc các thông tin chung khác, chẳng hạn như họ tên, chủng tộc, v.v.), sẽ có bất kỳ sự khác biệt nào với giấy khai sinh. Việc xử lý như sau: Theo Nghị định số 158/2005 của Chính phủ về Đăng ký và Quản lý Căn cước công dân ngày 27/12/2005 / Điều 5 Khoản 2 NĐ-CP thì “Giấy khai sinh là căn cước công dân gốc của mỗi cá nhân. Tất cả các giấy tờ, tài liệu của một cá nhân đều có họ, chữ đệm; ngày tháng năm sinh; giới tính, chủng tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha mẹ – con cái phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó. “Do đó, nếu thông tin trên CMND trùng khớp với bản chính giấy khai sinh Nếu không đúng tỷ lệ thì công dân phải đăng ký lại CMND mới. Khi đăng ký lại, công dân có trách nhiệm cung cấp bản chính giấy khai sinh để cơ quan Công an có liên quan xem xét, giải quyết.
Luật sư của Công ty Luật Wu Tianrong Baoan, Nam Đông, Nam Đông, Thành phố Hà Nội 41 41
Leave a Reply